Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2008

Linh mục, tu sĩ và cả mấy ngàn người về Thái Hà ủng hộ tinh thần và cầu nguyện

Nhật ký Thái Hà ngày 30/08/2008

Nước mắt của tình hiệp thông

Lúc 6h15 -10h Giờ cầu nguyện sáng nay tại linh địa Thái Hà vừa kết thúc, hiện tượng lạ lại tiếp tục xảy ra. Giáo dân nhìn thấy liền quỳ gối, vừa khóc vừa kêu lên: Mẹ ơi, Mẹ cứu chúng con!

Click vào đây Xem hình ảnh các Linh mục Hà Nội tới cầu nguyện hiệp thông trưa ngày 30.8.2008

Trên bầu trời, hình người nữ đầu đội vương miện bồng hài nhi bên tay trái hiện ra, đứng trên mặt trời vừa mọc; hai luồng sáng từ mặt trời tỏa vút lên. Sau hiện tượng đó là hiện tượng những hình tròn trắng nhỏ với viền màu đỏ xung quanh bắn ra từ mặt trời mới mọc. Tiếp nữa, ngay tại tượng Đức Mẹ Ban Ơn được đặt trước linh đài, hiện tượng lạ cũng xảy ra: Trên đầu Đức Mẹ, những vòng hào quang với đủ sắc màu cứ tỏa ra liên tục. Hiện tượng lạ diễn ra trong vòng 15 phút. Các hiện tượng này lặp lại lúc 9h30 – 10h.

Được biết, cho đến thời điểm này một số người bị đánh bằng dui cui điện vẫn chưa đi lại được. Một số khác đi đến bệnh viện khám, nhưng không được bác sĩ cho giấy chứng thương. Bác sĩ hỏi: làm gì mà bị đánh bằng dùi cui điện thế này? Con cái Chúa thành thật trả lời: Tối qua ra đồn công an cầu nguyện để xin trả người oan khuất, liền bị công an đánh cho. Nghe thế, bác sĩ nói thẳng: đụng đến công an rách việc lắm! Bởi thế, bác sĩ chỉ khám mà không cho giấy chứng thương.

Lúc 11h trưa - Giáo dân đổ về Thái Hà như trảy hội, người thì đi ra linh địa cầu nguyện, người thì ở lại nhà thờ gặp gỡ, chuyện trò động viên nhau trước những gian nan, thử thách. Buổi hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được bắt đầu. Giáo dân ngồi chật kín trong nhà thờ, ngoài sân và vào tận tầng trệt của tu viện. Sau đó là thánh lễ. Các linh mục đồng tế hầu hết là linh mục đoàn của giáo phận Hà Nội trở về hiệp thông với anh chị em Thái Hà. Bài giảng của cha chánh xứ Thái Hà về thập giá Chúa Kitô đã làm cho rất nhiều người rơi lệ khi biết đến nỗi oan khiên, đau khổ của anh chị em giáo dân Thái Hà. Thánh lễ kết thúc, mọi người tuốn ra cầu nguyện tại linh địa bất chấp trời đang nắng chang chang.

Click vào đây xem Xem hình ảnh giáo dân cầu nguyện ban chiều tại linh đài Đức Mẹ Thái Hà

Lúc 20h15 -Tối nay, số giáo dân các nơi trở về Thái Hà còn đông hơn cả ban trưa. Dương như không còn một chỗ nào trống trong khuôn viên nhà thờ. Sau thánh lễ, đoàn người đông đảo lại nườm nượp tuốn ra linh địa cầu nguyện. Đầu đoàn rước đã đi được một vòng xung quanh linh địa, vậy mà cuối đoàn rước vẫn còn ở trong nhà thờ. Giờ cầu nguyên tối nay kéo dài khoảng hai mươi phút. Lực lượng công an mặc quân phục có mặt tại linh địa thì rất ít, nhưng công an mặc thường phục đi lẫn với giáo dân thì khá đông. Không biết tới đây anh chị em giáo dân Thái Hà sẽ còn phải gặp tai bay vạ gió gì nữa?!

Ý kiến độc giả - Giải pháp cho Thái Hà: Mở thêm nhà tù và tuyển thêm nhà báo

Kính gửi:
- Ô. Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
- Ô. Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
- Ô. Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Ô. Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Tướng Nhanh và các quan chức CSVN họp báo (Photo:VnMedia)
Kính thưa quý ông,

Vụ giáo xứ Thái Hà (178 Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, Hà Nội) đến nay đã kéo dài hơn 8 tháng và đặc biệt căng thẳng trong 2 tuần qua.

Chính quyền địa phương và bộ máy chuyên chính của chế độ dân chủ ngàn lần ưu việt (gồm lực lượng công an và ngành thông tin – truyền thông) đã thực thi công vụ rất có trách nhiệm, nhằm khôi phục trật tự, vãn hồi kỷ cương cần phải có của một xã hội dân chủ - công bằng – văn minh – theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Các cấp thẩm quyền đã áp dụng những biện pháp đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những biện pháp vốn đã góp phần xây dựng nền móng cho các chế độ dân chủ ở Liên Xô của đồng chí Xta-lin, ở Trung Quốc của đồng chí Mao Trạch Đông, ở Triều Tiên của đồng chí Kim Nhật Thành, ở Ru-ma-ni của đồng chí Ceaucescu, ở Cuba của đồng chí Fidel Castro, nhất là ở nước ta thời cải cách ruộng đất, đấu tố bọn địa chủ Việt gian.

Trong những ngày qua, bộ máy chuyên chính đã sử dụng các biện pháp: nào vận động các “quần chúng tốt, có giác ngộ cao” lên tiếng vạch trần âm mưu, thủ đoạn của “bọn xấu”, “bọn đội lốt tôn giáo”, "bọn bị thế lực hải ngoại giật giây"; nào dùng báo chí, truyền hình, phát thanh tạo dư luận và phát động đấu tranh; nào dùng các công cụ trấn áp bọn tội phạm là dùi cui, roi điện, kể cả quyết định khởi tố vụ án, họp báo quốc tế nói cho thế giới biết nhà nước hiện nay là rất biết pháp luật và hành động theo pháp luật.

Tuy vậy, các biện pháp trên, nói cho cùng, vẫn chưa đủ làm chùn bước đám giáo dân và tu sĩ – linh mục Thái Hà.

Họ vẫn kiên quyết đòi công lý. Họ vẫn dứt khoát yêu cầu chính quyền ta phải tôn trọng sự thật về hơn 60.000 m2 đất.

Trong suốt ngày 28-08-2008, ngày áp lễ của người công giáo kỷ niệm “Ông thánh Gioan bị bạo chúa Hêrôđê giết” , các công cụ chuyên chính vô sản đã dùng roi điện quất vào người và giầy đinh đạp vào mặt, đã tống vào nhà giam, đã viết bài lên báo, đã phát tin trên truyền hình làm cho mọi người biết bản mặt các thày tu chuyên xúi giục dân biểu tình, gây “rối loạn trật tự công cộng”, “phá hoại tài sản”, “ngang ngược đòi lại đất đã hiến cho nhà nước” .

Nhưng họ không hề lùi bước.
Dường như họ quyết theo gương gã thảo dân Gioan và ngầm liên tưởng, so sánh chúng ta với bạo chúa, hôn quân Hêrôđê!
Tình thế này buộc toàn bộ hệ thống chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vào cuộc.

Nghĩa là phải phát huy mạnh mẽ kinh nghiệm dập tắt mọi biểu hiện muốn vượt ra khỏi khuôn khổ của nền tự do “phải đạo” (chữ của giáo sư văn học Hoàng Ngọc Hiến), muốn ra ngoài kỷ cương của chế độ vì dân-do dân, duy nhất ưu việt của chúng ta.

Do đó, tôi viết bản kiến nghị này với mong muốn góp phần bẻ gãy ý chí của những kẻ ngoan cố và củng cố niềm tin vào nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; nêu cao ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường tất yếu của lịch sử là xây dựng nền chuyên chính vô sản, đem lại độc lập – tự do - hạnh phúc cho mọi người đi theo Đảng.

Tôi tha thiết kiến nghị:

1. Củng cố và tăng cường sức mạnh của công an-quân đội, lực lượng đáng tin cậy, chỗ dựa vững chắc của nền chuyên chính vô sản, nguồn lực mạnh mẽ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với phương châm ĐÁNH NHANH – ĐÁNH MẠNH – ĐÁNH KHÔNG NƯƠNG TAY:

a/ Bắt ngay các linh mục, tu sĩ Thái Hà:

Cần ra tay bằng mọi cách, kể cả dựng chứng cớ giả, ngụy tạo hiện trường (như công an vẫn thường làm: đem quần lót phụ nữ, bao cao su ngừa thai, súng ống, lựu đạn… giấu trong phòng ở của linh mục), cài người vu cáo để có chứng cớ bắt các linh mục tu sĩ Thái Hà.

b/ Huy động lực lượng trấn áp hùng hậu:

Gồm công an, quân đội, các đơn vị dân quân – tự vệ; sử dụng các phương tiện, khí tài hiện đại (xe cứu hỏa, xe tăng, xe bọc thép; súng phóng lựu; lựu đạn cay…).

Giáo dục các đơn vị tham gia trấn áp đám giáo dân Thái Hà về tinh thần ngoan cường bảo vệ chế độ, noi theo tấm gương của các lực lượng vũ trang Trung Quốc trong sự kiện Thiên An Môn: ĐÁNH NHANH – ĐÁNH MẠNH – ĐÁNH KHÔNG NƯƠNG TAY.

Hiện nay, chúng ta mới chỉ sử dụng lực lượng công an và dân quân địa phương. Chúng ta chưa huy động lực lượng quân đội ở thủ đô. Mặc dù, Quân khu Thủ đô vừa có tập thể lãnh đạo mới – một tập thể có khuynh hướng hợp tác về quân sự với quân đội Hoa Kỳ, dị ứng với phái thân Trung Quốc vốn rất hà khắc, chống lại nhân dân, đặt lợi ích của chế độ cao hơn nhân dân - và trong lịch sử, quân đội rất được lòng dân, chưa hề nhúng tay vào bất kỳ cuộc trấn áp nào, kể cả thời cải cách ruộng đất. Nhưng chúng ta vẫn nuôi hy vọng, khi có lệnh của Đảng, quân đội cũng sẽ ra tay sát cánh với lực lượng công an trấn áp những cuộc tụ họp đưa thỉnh nguyện.

Tuy vậy chúng ta cũng cần nêu cao tinh thần cảnh giác, bởi vì trong hàng ngũ giáo dân Thái Hà, có rất nhiều cựu chiến binh đã từng hy sinh xương máu trong hai cuộc kháng chiến. Nhiều người được huân chương chiến công. Nhiều anh hùng liệt sĩ vốn là giáo dân Thái Hà.

Do đó, cần hết sức cân nhắc khi đưa quân đội tham gia cuộc trấn áp Thái Hà.

Quân đội không dễ dàng thỏa hiệp với công an, lực lượng đáng tin cậy nhất của nền chuyên chính.

c/ Gấp rút xây dựng thêm nhà tù:

Ngày 27-08-2008, chúng ta đã ra quyết định khởi tố vụ án, đã bắt một số giáo dân. Trong đêm 28-08, chúng ta đã đánh vỡ mặt một số phụ nữ già có trẻ có, kể cả một thầy dòng, nhưng chúng vẫn chưa chịu khuất phục. Ngày 29-08, họ còn tụ tập đông hơn trước.

Tình thế này buộc ta phải mạnh tay hơn nữa.

Quần chúng có đạo ở Thái Hà xuống đường. Ta cũng sẽ xuống đường với lực lượng cơ động, sử dụng các khí tài hiện đại nhất, kể cả vũ khí hóa học, quyết dập tắt mọi hình thức tuần hành dù ôn hòa, dù chỉ đọc kinh, hát thánh ca.

Nếu quần chúng cầu nguyện trước trụ sở công an và các Ủy ban nhân dân, chúng ta sẽ thẳng tay giải tán, nếu cần sẽ đưa thẳng họ vào trại giam. Ở đó họ sẽ có thời giờ nghiền ngẫm bài học: trên mảnh đất này, không tồn tại bất cứ linh địa thánh địa nào, chỉ có những mặt bằng có giá trị kinh tế trên sàn giao dịch bất động sản.

Do đó, không thể không mở thêm nhà tù. Nếu cần, sẽ “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học” (Hồ Chí Minh – Tuyên ngôn Độc lập 2-09-1945) . Bởi vì, chắc chắn, ngày càng thêm đông đảo giáo dân xuống đường cầu nguyện đòi tôn trọng nhân quyền và công lý. Hơn nữa, cũng sẽ có không ít người vào hùa với giáo dân. Số người này, tuy không phải công giáo nhưng cũng có chung nguyện vọng công lý và nhân quyền, vốn không ít trên đất nước này, sẽ toa rập với giáo dân Thái Hà và nhiều nơi khác nữa.

Giáo dân đòi đất cho nhà thờ, mà sau đó, nếu có đòi được, họ -gồm giáo dân và linh mục- thì cũng chẳng có một chút lợi lộc kinh tế nào cho bản thân. Vậy mà họ vẫn xả thân. Huống chi biết bao người bị mất đất, phần tài sản xương máu của tổ tiện, sẽ còn hăng hái đi đòi đất đến đâu!

Nếu chúng ta không ra tay, thì thế giới sẽ không thể tìm đâu ra một bằng chứng hùng hồn cho một định nghĩa chính xác và toàn vẹn về dân chủ, tự do, pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Vì thế, không thể không xây thêm nhà tù.

Xây thêm nhà tù ở Sài Gòn, Vĩnh Long. Xây thêm ở Lâm Đồng, Tiền Giang, Bình Phước. Xây thêm ở Hà Nội, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh... Khắp 64 tỉnh thành, nơi nào mà không có dân kêu ca bị oan khiên, bị trù dập!

Bởi vậy không thể không xây nhà tù cho những kẻ dám tỏ bày nỗi oan khiên, làm xấu hổ chế độ trước cộng đồng thế giới.

Chúng ta vẫn biết, hiện đang còn nhiều oan khiên và bất công, nhưng đó chỉ là hiện tượng nhất thời, không phản ánh đúng bản chất của nền dân chủ hiện nay của chúng ta, như các vị sáng lập chế độ đã chỉ ra, qua các khẩu hiệu được treo khắp phố phường, xóm thôn! Hơn nữa việc tô đậm oan khiên và bất công, nói cho cùng, chỉ là luận điệu xảo trá của bọn thù địch… nhân dân.

Chúng ta đã kịp thời trấn áp, đưa vào nhà tù hai tên cầm bút Nguyễn Văn Hải (báo Tuổi Trẻ) và Nguyễn Việt Chiến (báo Thanh Niên). Nhờ vậy cuộc đòi hỏi công lý và cái gọi là mệnh lệnh chống tham nhũng đã bị đập tan.

Nhà tù, vì thế, đang là vấn đề thời sự, là công cụ hữu hiệu của quản lý nhà nước. Cần phải đưa nhà tù vào danh mục các công trình công cộng cần được xây dựng ưu tiên.

Chúng ta không thể không nêu cao ý thức: Nhà tù, một công cụ không thể thiếu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

2. Tuyển mộ thêm nhà báo với phương châm SỐNG VÀ VIẾT THEO CHỈ THỊ:

a/ Viết báo như người đi trong lề đường đã được quy định:

Rút kinh nghiệm vụ Tòa Khâm sứ, báo chí phải tích cực hăng hái phổ biến quan điểm chỉ đạo của Ban Tuyên huấn trung ương và Bộ Thông tin – Truyền thông.

Vụ Tòa Khâm sứ, chỉ có tờ Hà Nội Mới và Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội vào cuộc. Kết quả là tiếng nói tuyên truyền yếu ớt. Chúng ta đã phải tạm lùi một bước, ngồi vào bàn thương lượng. Tuy nhiên, chúng ta đã kịp điều chỉnh đối sách. Chúng ta chọn phương cách “im lặng là vàng”, “để lâu cứt trâu hóa bùn” nhằm giải quyết vụ Tòa Khâm sứ.

Đối sách này đã bắt đầu có tác dụng. Các nhà lãnh đạo Giáo hội, vốn hiền lành và tin người, đã đặt hy vọng vào lời hứa của chúng ta. Tất nhiên, chúng ta hứa thì cứ hứa, còn làm như thế nào, thì “cứ đợi đấy”.

Đồng thời chúng ta nhanh chóng nhận ra khe hở chết người trong hàng ngũ của mình. Đó là việc báo chí quên mất “lề đường bên phải” (mượn ý của các đồng chí Tuyên huấn trung ương và Bộ TT-TT). Cái lề đường bên phải chính là nền tự do báo chí có định hướng, được lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ minh họa cho những chủ trương của Đảng.

Chúng ta đã kịp thời điều chỉnh, không để cho báo chí đi ngoài lề.

Chúng ta đã cách chức 2 Phó Tổng biên tập, bắt giam 2 phóng viên nội chính.

Kết quả là báo chí đã ngoan ngoãn, biết vâng lời.

Do đó, hiện nay, khi giải quyết vụ Thái Hà, chúng ta có một thuận lợi lớn. Báo chí nhất loạt nói theo ý Đảng và quyết sách của chính quyền. Báo chí không thể không ngoan ngoãn và cũng không còn dám ngang ngạnh, nếu không muốn nếm thử mùi vị của cái gọi là tự do báo chí, tự tiện đi ngoài lề, như Thanh Niên và Tuổi Trẻ đã từng phải nếm qua vụ tổn thất nhân sự vừa qua.

Các báo Hà Nội Mới, Sài Gòn Giải phóng, các đài truyền hình VTV và Hà Nội đã làm tốt nhiệm vụ MINH HỌA chủ trương của Đảng và chính quyền. Các cây bút của chúng ta đang làm cho bậc tiền bối là Nguyễn Minh Châu phải xét lại lời kêu gọi “Hãy đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ/báo chí minh họa” . Lời kêu gọi của Nguyển Minh Châu 20 năm trước đã trở nên quá nguy hiểm cho nền báo chí của chúng ta. Đó là suy nghĩ bốc đồng của một nhà văn. Suy nghĩ này có nguy cơ đưa báo chí đến những bến bờ khó lường và xa khỏi tầm kiểm soát.

Nói cho cùng, báo chí không MINH HỌA ý Đảng và chính quyền, thì không còn là nền báo chí phục vụ cho chế độ.

b/ Viết báo như học trò chép chính tả:

Chúng ta chủ trương, trước sau như một, không cho tư nhân làm báo, vì không thể buông lỏng trận địa tư tưởng cho kẻ khác.

Chúng ta cũng không vì thế mà sợ dư luận thế giới phê phán chế độ ta không có tư do dân chủ.

Bởi, ngày trước, cố Tổng bí thư Trường Chinh đã nói rõ: “Ai bảo Việt Nam không có tự do báo chí? Hãy xem các phóng viên được tự do viết bài chống Mỹ và tự do viết ca ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng! Viết để chống Mỹ và nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng, đó mới là nhận thức đúng đắn về tự do, mới thực sự là có tự do báo chí!” (Theo lời kể của Vũ Kỳ, thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh).

Ngày nay, chúng ta có Luật Báo chí đã được Quốc hội thông qua. Qua văn kiện này, chúng ta cho phép người cầm bút được thông tin, phản ánh dư luận trong khuôn khổ và nhằm mục đích tối hậu là “Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước” (Luật Báo chí, điều 6.2).

Vì thế, sau khi bắt giam các phóng viên cứng đầu và cách chức hai phó Tổng biên tập “có vấn đề”, đội ngũ nhà báo cần được bổ sung bởi những công chức cầm bút tuyệt đối trung thành và tuân thủ yêu cầu “tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước” .

Cần đào tạo và tuyển mộ phóng viên theo tiêu chuẩn trên.

Rất may cho nền báo chí của chúng ta. Trong 2 tuần qua, các báo (vừa nêu tên ở trên) đã có những bài viết theo đúng văn bản soạn sẵn của công an, nhờ đó vụ Thái Hà được thông tin theo đúng như điều giáo sư Hoàng Ngọc Hiến mô tả là thông tin “phải đạo”.

Các đồng chí nhà báo của chúng ta đã viết như học trò chép chính tả.

Đó là điều chúng ta mong chờ nơi đội ngũ cầm bút hiện nay.

c/ Viết như những nghệ sĩ có tài ảo thuật:

Từ ngày 17-08-2008 đến nay, đội ngũ làm báo, nhất là VTV, Hà Nội Mới, Truyền hình Hà Nội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyên truyền, xứng đáng được biểu dương bằng những danh hiệu cao quý nhất, vì các đồng chí phóng viên của các cơ quan nêu trên đã tỏ ra mình là công cụ hữu hiệu của nền chuyên chính vô sản. Mỗi dòng tin, mỗi lời bình luận của các đồng chí tựa như súng đạn, mã tấu bắn và chém vào những kẻ gây rối.

Quả thật, bằng kỹ thuật viết rất hiệu quả, không khác gì các ảo thuật gia đổi trắng thành đen, biến con gà thành con chim quốc, các đồng chí phóng viên đã làm được những việc lớn, có tác dụng tuyên truyền, giúp nhiều người tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong việc thực thi nền dân chủ ở quận Đống Đa, trên phần đất Thái Hà ấp. Cụ thể như sau:

- Quả quyết đất Thái Hà đã được cụ Vũ Ngọc Bích hiến dâng cho Nhà nước. Nhà nước năm 1961 hoàn toàn không có ý xin xỏ cũng chẳng hề có kế hoạch trưng dụng. Linh mục Bích rất tự nguyện, tự giác, tự ý đến cơ quan Nhà nước làm đơn thỉnh nguyện, xin Nhà nước cho mình, một viên quản lý của Nhà dòng Chúa Cứu thế, được tặng không cho Nhà nước phần đất của Tu viện để Nhà nước mặc sức sử dụng.

- Quả quyết Công ty May Chiến Thắng là một đơn vị đang trên đường làm ăn hiệu quả, tạo công ăn việc làm cho dân chúng Thái Hà.

Công ty đang sản xuất ổn định trên phần đất cụ Bích ngày xưa từng khẩn khoản nài xin cho được hiến dâng, vậy mà linh mục Hiên, rồi linh mục Phụng, vô cớ đòi lại để xây nhà thờ.

Thật đáng thương cho Công ty! Bỗng chốc cơ nghiệp ra tay trắng. Phần đất bỏ hoang kia đâu phải là không có giá trị trong sản xuất kinh doanh của công ty. Nó được để hoang, cỏ mọc um tùm, nhằm tạo không gian thoáng cho… công nhân hít thở khí trời lành mạnh của ban ngày và tụ họp hẹn hò trăng hoa khi đêm về; hơn nữa còn có giá trị marketing thu hút các nhà kinh doanh bất động sản!

- Báo chí đã thành công khi quả quyết đám giáo hữu đi đọc kinh cầu nguyện kia, thực chất chỉ chăm chắm lo việc đấu tranh, gây rối. Họ rất kém lòng đạo.

Báo chí ta đã dạy cho giáo dân Thái Hà bài học sâu sắc về cách đọc kinh, hành lễ thế nào cho sốt sắng, hầu đẹp lòng Thiên Chúa đồng thời cũng vừa lòng nhà đương cục!

Một vài kiến nghị xin mạo muội dâng lên quý vị lãnh đạo, với mong muốn thiết tha là được góp phần giải quyết rốt ráo vụ Thái Hà.

Giải quyết vụ này xong xuôi êm thắm, nghĩa là san bằng mọi khiếu nại khiếu kiện, ắt nền tự do dân chủ tiến lên thêm một bước vững chắc, ghi vào lịch sử một nét son ngời ngời, xứng tầm vóc Thiên An Môn của người láng giềng Trung Quốc vĩ đại.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30-08-2008
Người kiến nghị Lý Hành Giả
Lý Hành Giả

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2008

GIÁO LÝ VỀ ĐỨC MARIA HỒN XÁC VỀ TRỜI

1। Đức Maria có chết không ?

Công Đồng Vatican II không bàn tới Đức Mẹ có chết hay không vì muốn để cho các nhà thần học nghiên cứu, bàn cãi nhiều nữa, mặc dầu đã có chiều hướng công nhận।


Từ xa xưa, các giáo phụ, các nhà thần học, và ngay cả lãnh vực Phụng vụ nữa, đều công nhận. Còn nơi, ngày, hoàn cảnh Đức Mẹ chết không được rõ ràng, thêm vào đó các sách ngụy thư thêu dệt, bịa đặt nầy kia nên không thể biết chính xác. Origène (in Jean 2,12; fragm.31), Thánh Ephrem (Hymne 15,2), Sévérien de Gabala (De mundi creatione or 6,10), Thánh Hiêrônimô (Adv. Ruf 2,5), Thánh Augustinô (In Jean tr.8,9) đều nói về cái chết của Đức Maria.
Thánh Ephan cố gắng làm sáng tỏ chuỗi ngày cuối cùng của Đức Maria thế nào, nhưng Ngài phải thú nhận “không biết”. Một câu hỏi không có giải đáp rằng Đức Maria qua đời cách tự nhiên hoặc phải chịu chết đau khổ vì theo Thánh Luca, “Mũi gươm sẽ đâm thấu tâm linh nơi chính mình Bà” (Lc 2,35), còn sách Khải Huyền : “Bà được hai cánh đại bàng chở vào sa mạc, nơi dành cho Bà” (Kh 12,14).
Đức Giáo Hoàng Hadrien I đã gửi cho hoàng đế Charlemagne (784-794) quyển Sách Các Phép Grêgoriô có lời nguyện về Đức Maria qua đời chứng tỏ quyền giáo huấn thông thường cũng đã chấp nhận sự kiện Đức Maria qua đời (Veneranda nobis, Domine, hujus est dei festivitas, in qua Sancta Dei Genitrix mortem subiit temporalem, nec tamen mortis nexibus deprimi potuit, quae Filium tuum Dominum nostrum de se genuit incarnatum… Lạy Chúa, trong ngày lễ mừng kính này, chúng con kính Đấng thánh Mẹ Thiên Chúa nhận cái chết trần gian, nhưng cái chết không chôn vùi thân xác trong lòng đất vì Ngài đã sinh ra Con Chúa, Chúa chúng tôi làm người…). Nhưng cũng có người cho rằng Đức Maria không phải chết.
Tác giả vô danh của một bài giảng lấy tên là Timôtê, linh mục Giêrusalem (thuộc thế kỷ 6-7) đưa ra ý kiến rằng : “Đức Trinh Nữ được bất tử (nghĩa là không chết) vì Đấng đã ngự trong lòng Ngài đã mang Ngài về trời” (orat, in Symeonem). Cái chết ở trong phạm vi một hình phạt, hình phạt vì tội lỗi mà Đức Maria được miễn khỏi tội nguyên tổ và không vướng mắc mọi tội riêng nên Ngài không phải chết. Tuy nhiên, xác chết là một định luật tự nhiên và phổ quát, lại nữa để giống như Chúa Kitô đã chịu chết nên xác Đức Maria chết nghĩa là Đức Maria lãnh nhận cái chết là một điều dễ hiểu.
2. Đức Maria hồn xác về trời a. Lịch sử tín điều
Không có một câu Kinh Thánh nào trực tiếp nói tới hồn xác Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời. Tuy nhiên, có đôi câu Kinh Thánh có thể gợi ý để người ta suy nghĩ :
Matthêu 27,52-53 : “Mồ mả mở toang ra, xác của nhiều vị thánh xưa kia sống lại. Họ ra khỏi mồ. Sau khi Chúa sống lại, họ vào thành thánh, hiện ra cho nhiều người”.
Như vậy, đã có thể thân xác sống lại hưởng vinh quang trên trời nhờ cái chết của Chúa Kitô trước khi Ngài quang lâm trong ngày tận thế. Một khi đã có như vậy, tại sao xác của Mẹ Chúa không hưởng được hạnh phúc đó ? Thắc mắc nầy đã được đặt ra trước thế kỷ 7. Những truyện hoang đường trong Phúc âm ngụy thư sáng tác ở Ai Cập, ở Syri không có giá trị về lịch sử nhưng ít ra cũng cho ta biết được lòng tôn sùng Đức Mẹ của giáo dân thời ấy : vấn đề xác Đức Mẹ lên trời đã được đặt ra. Đầu thế kỷ VIII, hoàng đế Mauritiô ra sắc lệnh truyền phải mừng lễ “Dormitio Beatae Mariae” (Đức Mẹ an nghỉ) trong toàn đế quốc của ông. Giáo hội Đông phương thường mừng lễ này vào ngày 15 tháng Tám ; có nơi tin tưởng “xác và hồn Đức Mẹ” đã được đưa về trờ, có nơi không.
Bên Tây phương, lời nguyện trong quyển Sách Các Phép Grêgoriô nói : “Nec tamen mortis nexibus deprimi potuit : nhưng cái chết không chôn vùi xác trong lòng đất” đã làm hứng khởi cho niềm tin sự phục sinh xác của Đức Maria. Từ đó, niềm tin “Đức Trinh Nữ thăng thiên cả xác” được xem như một phẩm tính cốt yếu của chức Mẹ Thiên Chúa, dĩ nhiên được lan rộng ra nhiều nơi. Tuy nhiên, một số nhà tư tưởng đang chống lại ảnh hưởng của Phúc âm ngụy thư, buộc lòng phải dè dặt với vấn đề này.
Paschase Rabert năm 856 khuyên tín hữu dè dặt một chút về niềm tin “xác Đức Mẹ được thăng thiên”. Ông còn ngụy tạo một bức thư gán cho của Thánh Hiêrônimô viết trong đó tỏ ra hồ nghi và dè dặt về “Đức Maria được thăng thiên cả hồn cả xác”. Bức thư có ảnh hưởng lớn, ngay cả sách Phụng vụ Giờ kinh cũng trích dẫn, đến nỗi tới thế kỷ 16 mới khám phá được sự ngụy tạo. Tuy nhiên, đối với số đông giáo dân, tâm tình mộ mến Đức Mẹ đi đôi với niềm tin “xác Đức Mẹ thăng thiên” cứ tăng lên cao. Khoảng thế kỷ 12, Đức Giám Mục Herbert de Losinge tại Norwich (qua đời 1118) đã phát biểu rõ ràng biểu lộ lập trường dứt khoát dựa trên niềm tin chung : “Impossbile erat eam carnem diuturna morte posse corrumpi ex qua Verbum caro factum est… Plena, fratres, et secura fide tenete quod… Anima et corpore immortalis facta… et dextris resideat Dei… : Không thể xảy ra cái chuyện xác thịt của đấng cho Ngôi Hai làm người lại tan nát do cái chết lâu dài được… Anh em thân mến, anh em hãy vững tin đầy đủ rằng… Đấng đã hưởng hồn xác bất tử đang ngự bên hữu Thiên Chúa”.
Cũng thời đó xuất hiện một luận đề thần học mà người ta tưởng là của Thánh Augustinô, tác giả vô danh đã lý luận : “Nếu Chúa Giêsu đã muốn gìn giữ sự đồng trinh toàn vẹn của Mẹ mình thì sao lại không giữ Mẹ mình khỏi thối nát, một sự mục nát của mồ mả và sâu bọ là sự tủi nhục cho bản tính loài người”. Qua thế kỷ XII, có Guilbert, tu viện trưởng tại Nogent và nhất là Đức Alexandre III đã góp một phần lớn trong sự khai triển thần học về niềm tin này.
Sang thế kỷ XIII, một số nhà thần học tỏ ra dè dặt kể cả Thánh Tôma Aquinô, mặc dầu các ngài vẫn công nhận “xác Đức Maria được thăng thiên” là pia opinio (dư luận hiếu kính tốt), trừ Thánh Albertô. Có thể nói thánh Albertô đã có công nhất trong việc Giáo hội công nhận chân lý Đức Maria hồn xác lên trời, Ngài viết : “His rationibus et auctoritatibus, et multis aliis, mafestum est quod beatissima Dei Mater in corpore est assumpta et hoc omnibus modis credimus esse verum : Do bởi những lý lẽ và thể giá này và nhiều thứ khác nữa chứng tỏ rõ ràng Mẹ Thiên Chúa rất diễm phúc được đưa về trời cả xác là điều mà chúng tôi tin tưởng là sự thật”. Thế kỷ XIV, chân lý này được phổ biến rộng rãi hơn và một xác quyết có vẻ quyết liệt hơn đến nỗi Baldus de Ubaldar (chết năm 1400) coi việc từ chối Đức Mẹ hồn xác được lên trời như một “opinio proxima haeresi” (tư tưởng gần như lạc giáo).
Năm 1947, trường đại học Sorbonne tại Paris đã lên án Jean Morelle vì ông nầy dạy rằng từ chối chân lý Đức Mẹ hồn xác được lên trời không mắc tội nặng. Suarez (1548-1617) nhà thần học trứ danh đã viết về Đức Mẹ hồn xác về trời, tư tưởng của ông được Đức Piô XII lấy lại một phần trong Thông điệp tuyên bố tín điều. Ông viết : “Giáo thuyết này (Đức Mẹ hồn xác được lên trời !) chưa thuộc về Đức Tin vì chưa được Giáo hội định tín, hơn nữa, nó cũng không có chứng cớ Kinh Thánh hoặc Truyền thống đầy đủ nào để xây dựng thành một tín điều vô ngộ. Nhưng thời chúng ta, giáo thuyết đó được thừa nhận đến nỗi không một tín hữu Công giáo nào dám nghi ngờ nếu không do sự ngỗ ngáo… Muốn điều này được định tín, chỉ cần có một chân lý siêu nhiên nào trong Kinh Thánh hoặc trong Tông truyền chứa nó cách ẩn tàng rồi được tin tưởng chung của Giáo hội thêm lực cho, vì rằng nhờ sự trung gian của Giáo hội, Chúa Thánh Thần luôn luôn giải thích, truyền thông và soi sáng Kinh Thánh và sau cùng phải được Giáo hội xác quyết nhờ ơn vô ngộ của Chúa Thánh Thần phụ giúp, một xác quyết như thế đối với ta là một thứ mạc khải vậy”.
Thế kỷ 17, Giáo thuyết Đức Mẹ hồn xác lên trời được trình bày cách tinh vi hơn, thoát khỏi những thứ ngụy thư. Công Đồng Vatican I, 197 nghị phụ thỉnh cầu Công Đồng định tín giáo thuyết Đức Mẹ hồn xác được lên trời, các Ngài viết : “Si enim a labe peccati fuit immunis, ista ejus ab ejus peccati paena, ideoque a corruptione carnis immunis esse debuit : vì nếu được miễn trừ khỏi dơ bẩn tội lỗi thì cũng được khỏi hình phạt của tội lỗi và vì thế thân xác Ngài cũng được miễn trừ khỏi hư nát”.
Từ đó, nhiều vị Giám mục, giáo sĩ, giáo dân cứ đều đều năm này qua năm khác gửi thư thỉnh nguyện Tòa Thánh tuyến tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Năm 1946, Tòa Thánh gửi thư cho toàn thể Giám mục trên khắp thế giới hỏi ý kiến như sau :
“Với sự khôn ngoan và sáng suốt của quý hiền huynh khả kính, quý hiền huynh có nghĩ rằng điều “Đức Trinh Nữ diễm phúc được lên trời cả phần xác” là điều đáng đề xướng lên và định tín như một điều buộc tin không ?”. “Có phải quý hiền huynh, giáo sĩ và giáo dân của quý hiền huynh ao ước một sự định tín như thế không ?”.
Trong số 1191 lá thư gởi về Tòa Thánh Roma có 1169 tán thành định tín, còn 27 tỏ ý không đồng ý về nguyên tắc và xem việc định tín bây giờ không nên. Ngày 1-11-1950, Đức Piô XII định tín Đức Maria lên trời cả xác hồn nhưng không giải quyết vấn đề Đức Maria có phải chịu chết về thân xác trước khi mông triệu không :
“… auctoritate Domini nostri Jesu Christi, beatorum apostolorum Petri et Pauli ac nostra pronuntiamus, declaramus et definimus divinitus revelatum dogma esse : immacultam Deiparam semper Viriginem Mariam, explata terrestris vitae cursu, fuisse corpore et animma ad caelestem gloriam assumptam : Do quyền Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quyền hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và quyền riêng của chúng tôi, chúng tôi tuyên giảng, công bố và định tín tín điều thuộc mạc khải thần linh là : Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, vô nhiễm nguyên tội, sau khi làm toàn vẹn cuộc sống ở trần gian đã được đưa về trời cả hồn cả xác”.
Công đồng Vatican II đã ghi lại định tín Đức Mẹ Mông triệu của Đức Pio XII : Immaculata Virgo, expleto terrestris vitae cursu corpore et anima ad celestem gioriam assumpta est. (Hiến chế Lumen gentium số 59)
Câu định tín Đức Maria Mông triệu thật đơn giản và rõ ràng. Ở đây, người ta muốn yên lặng, không bàn tới vấn đề còn đang tranh luận về cái chết của Đức Maria. Ngay tiếng “assumpta” cũng chẳng ám chỉ một hình ảnh gì về không gian cả : nó có nghĩa là “mang theo với mình” và Kinh Thánh đã dùng từ ngữ đó với ý nghĩa được kết hiệp với Thiên Chúa (Sáng thế ký 5,24 ; Thánh vịnh 49,16 ; 73,24 : Người mang tôi vào ánh vinh quang). Những chữ cuối cùng của số này nói lên tước hiệu của Đức Maria là “Nữ vương vũ trụ” mà Đức Pio XII đã công khai tuyên bố năm 1954 trong Thông điệp Ad caeli Reginam (Universorum Regina a Domino exaltata, ut plenius conformaretur Filio suo, Domino dominantium (cf Apoc 16,19) ac peccati mortique victori). Tước hiệu Regina universorum (Nữ Vương vũ trụ) phải được hiểu theo nghĩa thần học như là một sự thông phần vào tước hiệu Vương đế của Chúa Giêsu (Jesus Christus Rex), một sự thông phần mà mọi Kitô hữu cũng được mời gọi tham dự. Nhưng Đức Maria vì đã được đồng hình đồng dạng trọn hảo với Đức Kitô nên Mẹ xứng đáng được tôn vinh bằng tước hiệu nầy ở cao độ trổi vượt (số 50).
b. Suy luận Chúng ta sẽ nêu ra vài suy nghĩ để thấy sự hợp lý khi tìm hiểu tín điều Đức Maria lên trời cả xác hồn.
1/ Đức Maria liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô Một dây liên kết bằng tình mẫu tử do huyết nhục với dây liên kết tình mẫu tử do lòng tin của Đức Mẹ dành trọn cho Chúa Kitô, một tình yêu mẫu tử giữa Đức Maria và Chúa Kitô theo tình Mẹ/ Con ở trần gian cũng đã bền chặt rồi, nơi Đức Mẹ và Chúa Kitô tình mẹ/ con mang tính cao cả và thiêng liêng, một tình mẫu tử tuyệt vời.
Có thể nói tình yêu mẫu tử đó là chặt chẽ cùng với công nghiệp của Chúa Kitô là mô thể để Đức Mẹ được những đặc ân : Mẹ Thiên Chúa, đồng trinh trọn đời, vô nhiễm nguyên tội v.v… 2/ Thể xác của Đức Maria trong quá trình nhập thể Cứu chuộc của Chúa Kitô.
Không có thể xác không thể hiện hữu trên mặt đất này, không có thể xác không thể nói đến mầu nhiệm nhập thể. Vậy, thể xác của Đức Maria làm cho có sự hiện hữu của Đức Maria và mới có nhập thể của Ngôi Hai trong cung lòng Đức Maria. Thể xác của Đức Maria đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc Ngôi Hai làm người, vì thế Thiên Chúa đã dành cho Đức Maria đặc ân trọn đời đồng trinh. Và chính thể xác Đức Maria là nơi thực hiện tình yêu mẫu tử cao cả và thiêng liêng giữa Đức Maria và con của Ngài là Đức Kitô. Căn cứ vào những đặc ân Thiên Chúa dành cho Đức Maria nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, con Đức Maria và tình yêu mẫu tử cao cả và thiêng liêng nói trên, ta đặt vấn đề : thân xác Đức Maria có nên để cho tan nát trong mồ đến ngày tận thế sẽ sống lại như mọi người không ?
Theo Thánh Phaolô, bởi tội Adam, tội và sự chết đã nhập vào thế gian, chết là báo ứng của tội (Rm 5,13 ,6,23 ; 1Cr 15,26). Cuộc chiến thắng của Chúa Kitô sẽ hoàn toàn chỉ khi nào sự chết bị tiêu diệt (1Cr 15,26; 15,53-56) vì lúc đó “đồ mục nát này sẽ mặc lấy, cái thây chết này sẽ mặc lấy trường sinh bất tử” (1Cr 15,53). Đối với loài người, sự chiến thắng này của Chúa Kitô chỉ xảy ra trong ngày tận thế, nhưng đối với Chúa Kitô, nhân tính của Ngài đã đạt chiến thắng hoàn toàn đó trong ngày phục sinh. Vậy, có nên quan niệm rằng Đức Mẹ với tư cách Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đồng trinh trọn đời, không mắc tội nguyên tổ và không phạm một tội riêng nào phải chịu cảnh chiến thắng bất toàn tức là thân xác Mẹ bị tiêu tan trong lòng đất để chờ ngày tận thế xác Mẹ mới được hưởng sự chiến thắng hoàn toàn của Con mình không ?
Ngoài ra, những đặc ân miễn trừ khỏi tội nguyên tổ, khỏi tội riêng cũng phải đưa tới kết quả là được miễn trừ khỏi hư nát trong mồ (vì thân xác hư nát trong mồ là hình phạt của tội) nên Thiên Chúa đưa hồn xác Đức Mẹ về trời là điều hợp lý. Ngoài ra, những đặc ân miễn trừ khỏi tội nguyên tổ, khỏi tội riêng cũng phải đưa tới kết quả là được miễn trừ khỏi hư nát trong mồ (vì thân xác hư nát trong mồ là hình phạt của tội) nên Thiên Chúa đưa hồn xác Đức Mẹ về trời là điều hợp lý.
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh